Thành lập Đại Thuận

Cuối thời Minh, triều đỉnh hủ bại, cộng thêm đất nước bị nạn hạn hánchâu chấu liên miên, quan phủ bóc lột, một số lượng lớn dân lưu tán, dân đói ở khu vực Tần Thục đã tiến hành nổi dậy, gọi là "lưu khấu" (流寇). Các nông dân này có chiến thuật tấn công theo kiểu du kích và riêng lẻ, khiến binh lực nhà Minh tổn hại nghiêm trọng. Năm 1633, lãnh tụ quân nông dân là Sấm vương Cao Nghênh Tường bị tướng Minh là Tôn Truyền Đình giết, Lý Tự Thành kế vị làm Sấm vương, tục gọi là Lý Sấm.

Năm 1641, Lý Sấm đánh chiếm Lạc Ấp, giết chết Lạc Dương Phúc vương Chu Thường Tuân, cùng với chư tướng nấu thi thể của Chu Thường Tuân và chia nhau ăn. Sau khi tịch thu Phúc vương phủ, quân nông dân của Lý Sấm có được một số lượng lớn lương thảo. Tháng 10 năm 1643, Lý Sấm công phá Đồng Quan, đến tháng 11 thì chiếm Tây An.

Ngoài ra, khi ấy còn có quân nông dân của Trương Hiến Trung, phát triển chủ yếu ở phương Nam, đầu tiên khống chế khu vực Hồ Quảng, sau đó chuyển sang tấn công Tứ Xuyên, lập chính quyền Đại Tây. Tuy nhiên, Lý Sấm và Trương Hiến Trung không duy trì quan hệ hợp tác mà lại đánh lẫn nhau.

Tháng 1 năm 1644, Lý Sấm lập nước tại Tây An, đặt quốc hiệu là "Đại Thuận", đặt niên hiệu là Vĩnh Xương, truy tôn Lý Kế Thiên (李继迁) của Tây Hạ làm Thái Tổ. Đầu tiên, Đại Thuận lấy Tây An làm kinh sư. Sau đó, Lý Tự Thành thống lĩnh 100[1] vạn quân vượt qua Hoàng Hà, chia làm hai cánh tiến đánh Bắc Kinh. Đến tháng 3, Lý Sấm đánh chiếm Đại Đồng, Tuyên Phủ, Cư Dung quan, đến ngày 11 thì binh đến chân thành Bắc Kinh. Ngày 18, quân Đại Thuận đã đánh bại quân Minh ở ngoại thành Bắc Kinh. Sáng sớm ngày 19 tháng 3, Lý Sấm tiến vào Tử Cấm Thành, Sùng Trinh Đế tự thắt cổ ở Môi Sơn tại Bắc Kinh, gọi là Giáp Thân chi biến (甲申之變), triều đình nhà Minh diệt vong.